MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI : CHƯƠNG 13
LỜI CHÚA VÀ TRUYỀN THỐNG
Truyền Thống và những truyền thống
Đối với con người thời đại ở Tây Phương, Truyền Thống đôi khi được xem
như một di sản của quá khứ, có nguy cơ làm cho khả năng sáng tạo ra cằn cỗi.
Nhưng đối với Truyền Thống trong Kinh Thánh thì không như thế. Chúng ta đã
thấy tầm quan trọng của “lịch sử tính”
trong việc lưu truyền Lời Chúa đã chẳng bao giờ ra lỗi thời, mà còn ghi khắc
trong một lịch sử luôn sinh động. Thiên Chúa, nhà mô phạm kiên trì, chẳng bao
giờ thô bạo với con người, nhưng đã chọn tỏ mình dần dần, theo nhịp bước của
lịch sử, linh hứng trong sự tôn trọng vẻ phong phú cũng như những giới hạn của
nền văn hóa nơi mỗi người. Đối với mỗi thế hệ, Lời vẫn là suối nguồn của sự cảm
thông mới mẻ.
Không một giai đoạn lịch sử nào làm cạn nguồn mọi ý nghĩa mà Lời Chúa diễn tả qua các văn bản Sách Thánh. Điều
này chứng tỏ Truyền Thống luôn sống động. Nếu Lời soi sáng cho lịch sử, thì
lịch sử lại từ từ vén mở nội dung của Lời, nó không phải là một sự thật mà ta
có thể nắm bắt được trọn vẹn luôn một lúc, nhưng đó là một chân lý vô tận chỉ
được tỏ lộ qua dòng thời gian.
Ta cũng cần phải nhớ rằng “Mạc Khải” hàm chứa trong Truyền Thống chỉ
liên quan đến kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa cho con người. Đó chính là lý
do để ta phải phân biệt giữa Truyền Thống ấy với những truyền thống khác, trong
cuộc sống xã hội loài người. Để không vội vàng cho là “mạc khải”, một lối tư
duy hay một cách thế thực hành nào đó, liên quan đến một giai đoạn hay một văn
hóa, nhất là trong những lãnh vực không trực thuộc thẩm quyền của Hội Thánh. Sự
kiện Ga-li-lê là một điển hình. Giáo quyền đã quyết liệt bênh vực một “truyền
thống”, theo đó Mặt Trời quay chung quanh Trái Đất. Nên sau đó đã bắt buộc phải
tự rút lại lời tuyên bố này cách công khai, làm tổn thương chính uy tín của
mình. Điều này chứng tỏ rằng Giáo Hội chỉ có thể bảo đảm cho một Truyền Thống liên quan đến Mạc
Khải ơn cứu độ của Thiên Chúa, và phải thận trọng, không nên thánh thiêng hóa
những gì chỉ là một quan điểm, rất có thể sẽ biến hóa sau này.
Ta đã thấy rằng Kinh Thánh trước tiên, qua bao nhiêu thế kỷ, đã là
những truyền thống truyền khẩu, sống động. Ký ức tập thể của các bộ tộc, các
chi họ này đã được lưu truyền, cử hành, cách đặc biệt trong những đền thánh lớn
như Si-khem, Ghin-gan, Si-lô, nơi mà các vị Tư Tế luôn quan tâm đến việc lưu
giữ những truyền thống truyền khẩu mà họ đã gom góp và diễn giải. Để rồi trong
những dịp cử hành phụng vụ hàng năm như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều
Trại, toàn dân tưởng niệm những biến cố nền tảng của lịch sử. Với vô số những diễn nghĩa liên tục của Kinh
Thánh chứa trong Talmud, làm thành bộ “Torah truyền khẩu”, mà các anh em
Do-thái cũng cho đó là quan trọng như bộ Torah thành văn vậy.
Cũng hoàn toàn như thế đối với truyền thống ki-tô giáo. Những bản văn
Tân Ước, kể cả bốn sách Phúc Âm, trước hết đã được lưu truyền bởi truyền thống
sống động của các cộng đoàn ki-tô hữu, trong những buổi tụ họp, được nghe những
chứng tá của các tông đồ, và hồi niệm lại những cử chỉ, lời nói của Chúa
Giê-su. Cũng thế, “Bữa Tiệc của Chúa”, hay cử hành Thánh Thể, đã là một trong
những nơi ưu tiên cho việc ghi chép các sách Phúc Âm, rồi từ từ các Sách này
được hình thành.
Ta không nên quên rằng nếu Lời Chúa đã có thể được đọc và suy niệm bởi
mọi tín hữu như ngày nay, thì trước kia đã chỉ được đọc và cử hành trong các
cộng đoàn Phụng Vụ. Phụng Vụ, đối với dân tộc của Kinh Thánh, cũng như đối với
Giáo Hội Tông Truyền, tuy không phải là nơi duy nhất, nhưng là nơi chính yếu
của việc hình thành và của sự tưởng niệm Lời Chúa.
Ki-tô giáo không phải là một tôn giáo của sách vở, nhưng là một tôn
giáo của Lời. Khi các môn đệ đầu tiên của Thầy Giê-su bắt đầu loan báo Lời
Chúa, họ đã chẳng hề có văn bản gì – vì thời đó chưa có chữ viết! – nhưng chỉ
là một huấn từ xoay quanh con người của Thầy. Chỉ sau này các cộng đoàn ki-tô
hữu mới cảm thấy nhu cầu ký gửi vào các bản văn kinh nghiệm đã được sống với
Thầy.
Và tiêu chuẩn chính yếu cho việc thiết lập qui điển về các Sách Thánh,
luôn luôn căn cứ vào thói quen thường được dùng trong các cộng đoàn ki-tô
giáo. Có mối giây liên hệ rất chặt chẽ giữa Cộng Đoàn cử hành Phụng Vụ, Giáo
Hội, Truyền Thống và Lời Chúa. Ta không thể tách rời các Sách Kinh Thánh và
Truyền Thống, hoặc coi đó như hai ngọn suối kề cận nhau. Chúng liên kết rất mật
thiết với nhau. Và đây cũng chính là lý do tại sao Kinh Thánh chỉ có thể được
giải thích trong Giáo Hội, là nơi ưu
tiên ở đó Lời Chúa được đón nhận, lắng nghe, cử hành, lưu truyền, giải nghĩa và
hiện thực hóa mỗi ngày.
Hơn nữa, trong mỗi lần cử hành Thánh Thể, cũng như trong những buổi
phụng vụ kinh thánh xưa kia, sau khi đọc lại Giao Ước, các tín hữu trong cộng
đoàn xác nhận Lời vừa được nghe công bố, đồng thanh tung hô: “Tạ ơn Chúa” hay
“Vinh danh Chúa”. Vì như trong Hiến Chế
về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Va-ti-ca-nô II nói: “Chúa Ki-tô hiện diện trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội” (số 7).
Trong lòng Giáo Hội, các đấng kế vị các tông đồ cũng có vai trò giống
như các ngôn sứ trong Kinh Thánh, là làm trung gian và diễn giải Lời Chúa. Các
ngài làm cho Lời nhập thể trở nên hiện thực ở mọi thế hệ, trong tính năng động
của một truyền thống sống động. Người ta không thể chỉ thu gọn “Lời Chúa” vào
những gì được “viết” ra. Nếu các Sách Kinh Thánh vẫn luôn là “số một” về hình
thức, thì “Lời Chúa” luôn sống động và vượt trên tất cả những gì được viết ra,
cũng như Đức Ki-tô hằng sống vượt trên mọi ý tưởng đã được viết về Người trong
các văn bản Tin Mừng của chúng ta. Truyền Thống cũng không thể chỉ được thu gọn
cách đơn giản vào những gì được lưu truyền, như kiểu một “kho chứa” trong chữ
viết, một giáo huấn khô cằn với những nghi thức và thể chế đông cứng.
Kinh Thánh và Truyền Thống được sinh động bởi Thần Khí, được hợp nhất
giữa lòng dân Chúa, nơi mà lịch sử cứu độ luôn tiếp diễn. Chính Chúa Thánh Thần
hợp nhất Lời và Truyền Thống giữa lòng một dân tộc đang tiến bước, nơi mà Lời
không ngừng “nhập thể”.
Nếu huấn quyền của Giáo Hội nhận lãnh từ Thần Khí đặc sủng để thẩm
định, để diễn giải Kinh Thánh, hầu bảo đảm cho việc lưu truyền kế hoạch yêu
thương của Chúa, thì chính toàn thể dân Chúa là nơi lưu giữ sống động của
Truyền Thống. Nếu trong Đức Giê-su, là sự Mạc Khải viên mãn, thì mỗi thế hệ,
qua dòng lịch sử, được Thần Khí soi sáng để hiểu biết và hiện thực hóa Truyền
Thống. “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí,
thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5, 25).
Cũng chính Thần Khí ấy đã “linh hứng” Lời Chúa và còn “linh hứng” cho
Giáo Hội việc truyền đạt Lời Chúa qua dòng lịch sử. Một Lời bất tận, luôn mãi
phải được đón nhận và hiểu biết một cách mới mẻ. Không phải là Mạc Khải thay
đổi, nhưng là khả năng thẩm định nội dung của Mạc Khải nơi con người thay đổi.
Đây chính là vấn đề của những môi trường chủ trương “bảo thủ”, họ không thấu hiểu được
rằng Truyền Thống luôn sống động. Họ thường lầm lẫn giữa Truyền Thống của bữa
Tiệc Thánh mà Thầy Giê-su đã truyền lại cho các tông đồ, và cách thế sống hay
thể hiện Bữa Tiệc. Do đó họ thánh thiêng hóa ngôn ngữ, nghi thức… mà quên rằng
chính Thầy Giê-su xưa đã không hề cử hành Bữa Tiệc Thánh này bằng tiếng
la-tinh! Để hợp lý với chính mình, thì đúng ra họ phải cử hành bằng tiếng
araméen! Trong trường hợp này, Truyền
Thống bao hàm những lời mà Thầy đã nói lên trong bữa Tiệc Thánh, và nhất là ý
nghĩa mà Thầy đã đặt cho chúng, chứ không phải là những truyền thống văn hóa và
ngôn ngữ được sử dụng, vì chúng vẫn chỉ là tương đối cho một thời kỳ mà thôi.
Những tín hữu nuối tiếc dĩ vãng, thường có quan niệm của một Giáo Hội
bị cắt đứt khỏi thần học về Chúa Thánh Thần. Họ quên rằng đức tin của dân Chúa luôn
năng động. Trung thành với Lời là đón nhận một Thiên Chúa, Đấng tự tỏ mình
trong suốt chiều dài của một lịch sử vẫn chưa thành toàn. Giáo Hội là Thân Thể
sống động của Đức Ki-tô, luôn được sinh động bởi Thần Khí của Người. Nên ta
không thể tách rời cuộc sống, Lời được tuyên bố, ra khỏi Thân Thể huyền nhiệm
của Người là Giáo Hội, nơi mà Lời được lưu truyền và được hiện thực. Chính Thần
Khí của Đức Ki-tô, Đấng ngự giữa lòng Giáo Hội, soi sáng để có thể phân biệt
căn cơ của Truyền Thống sống động, với những truyền thống thứ yếu, lệ thuộc vào
thời đại.
Đức Tin Ki-tô đồng thời bén rễ trong Lời Chúa được viết trong Sách
Thánh và trong Truyền Thống sống động của Giáo Hội. “Giáo Hội không chỉ nhờ Kinh Thánh mà biết cách xác thực những điều
mạc khải”[1].
Huấn giáo theo Truyền Thống
Kiểu nói “Truyền Thống” (paradosis
tiếng hy lạp, traditio tiếng la
tinh), trong Kinh Thánh và nơi các Giáo Phụ, thường đồng nghĩa với giảng dậy,
làm chứng, loan báo, đem Tin Mừng. Khi thánh Phao-lô nói “những truyền thống”
đã được đón nhận và lưu truyền, tất nhiên là thánh nhân muốn nói đến kế hoạch
của Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Giê-su Ki-tô và tất cả những gì liên quan
đến đời sống ki-tô hữu theo Tin Mừng.
“Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững
và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng
thư từ” (2 Tx 2, 15).
“Thưa anh em, nhân danh Chúa Giê-su
Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh mọi người anh em sống vô kỷ
luật, không theo truyền thống anh em đã nhận được từ nơi chúng tôi” (2 Tx 3, 6).
“Tôi có lời khen anh em đã nhớ đến tôi
trong mọi dịp và nắm giữ các truyền thống
tôi đã để lại cho anh em” (1 Cr 11, 2).
Thư thứ hai gửi Ti-mô-thê để lại cho chúng ta một chứng từ quí giá về
sứ vụ của người thuyết giảng và trách nhiệm của Giáo Hội, mà nhiệm vụ chính yếu
là công bố Lời và truyền đạt điều nhận được từ Truyền Thống: “Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học
được và đã tin chắc. Anh biết anh đã học với những ai. Và từ thời thơ ấu, anh
đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ,
nhờ lòng tin vào Ðức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do
Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục
để trở nên công chính” (2 Tm 3, 14-16).
Người tông đồ không phải là một thầy dạy tư duy hay hiệu trưởng của
trường phái triết học, nhưng là một người phục vụ, là kẻ “nhận” và “chuyển
giao” cách trung thành, một Lời không thuộc quyền sở hữu của mình mà chỉ “nhận
được”: “Anh biết anh đã học với những
ai!”
Vị sứ giả tự lu mờ đằng sau một sứ điệp vượt quá sức mình. Lời được
nhận, được đọc và được hiểu trong Truyền Thống sống động của Giáo Hội tông
truyền, là mẫu mực cốt cán cho hoạt động của người tông đồ. Vị này phải dạy
bảo, uốn nắn, giáo dục, luôn chiếu theo Kinh Thánh và Truyền Thống nhận được
và truyền đạt trong một cộng đoàn sống động “Anh
đã biết Sách Thánh (…). Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa
linh hứng”. Ở đây chắc hẳn
Phao-lô muốn ám chỉ Giao Ước Thứ Nhất, vì Ti-mô-thê còn quá trẻ để có thể biết
các văn bản Tân Ước, vẫn chưa được soạn thảo vào thời kỳ này.
Phao-lô nhắc nhở rằng Truyền Thống là một gia sản nhận được từ các
chứng nhân tiếp nối nhau. Trong các thư, được viết trước khi soạn thảo Tin
Mừng, ngài đã trích dẫn một vài đoạn, mà ngài nói là đã nhận được từ Truyền
Thống sống động của Giáo Hội tông truyền. Như bản xưa nhất của kinh Tin Kính
thời Giáo Hội sơ khai, mà các nhà chuyên môn cho là vào các năm 35-36, hầu như
ngay sau biến cố Vượt Qua.
“Thưa anh em,
tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận
cùng đang nắm vững ... Ðức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh
Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời
Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Muời Hai. Sau đó,
Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện
nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê,
rồi với tất cả các Tông Ðồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng
khác nào một đứa trẻ sinh non ... Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng,
thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy ” (1Cr 15, 1-11).
Bản kinh Tin Kính cổ xưa này
đã được lưu truyền bởi Truyền Thống, chứng tỏ rằng cái chết và phục sinh của
Đức Ki-tô không phải là một công việc làm muộn màng của các cộng đoàn tín hữu,
nhưng đã là biến cố nền tảng của đức tin Ki-tô giáo ngay từ đầu. Kiểu nói
“theo như lời Thánh Kinh” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh sự tiếp nối nhịp
nhàng của Mặc Khải. Biến cố Giê-su Ki-tô và Sách Thánh soi sáng lẫn cho nhau.
Chính Sách Thánh là lời diễn giải đầu tiên của biến cố Giê-su Ki-tô.
Thánh Phao-lô cũng nói rõ về việc cử hành Thánh Thể trong các cộng
đoàn: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ
nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy
bánh” (1 Cr 11, 23).
Thánh nhân thường khích lệ anh em mình gìn giữ vững vàng các “truyền
thống” này, là nền tảng của đức tin và của hạnh kiểm người ki-tô hữu, mà thánh
nhân đã nhận được từ Truyền Thống của Giáo Hội để dậy lại cho các cộng đoàn.
“Anh Ti-mô-thê, hãy bảo toàn giáo lý đã
được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, và những vấn đề
của tri thức giả hiệu” (1 Tm 6, 20).
“Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt
nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người có khả
năng dạy cho người khác” (2 Tm 2, 2).
Việc truyền đạt Lời
“Trước mặt
Thiên Chúa và Ðức Ki-tô Giê-su, Ðấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Ðấng sẽ
xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa,
hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm
đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,
1-2).
Phao-lô đã bắt đầu bằng một lời khẩn khoản nài xin, trước sự chứng giám
của Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su. Sứ vụ của người tông đồ, với sự phù trợ của
Thần Khí, trước hết là việc trung thành truyền đạt “Lời Chúa” mà họ phải công
bố “lúc thuận tiện cũng như khi gặp khó khăn”. Họ không được bận tâm đến những
lời bàn tán của thiên hạ: mà phải loan truyền “lúc thuận tiện cũng như khi gặp
khó khăn”. “Hợp thời hay không hợp thời”!
“Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự,
hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn
việc phục vụ của anh” (2 Tm 4, 5).
Tin Mừng sẽ luôn luôn là bất lợi, ngược dòng, trước sự ích kỷ, ham hố
lợi danh của con người. Mầu nhiệm Vượt Qua sẽ còn mãi mãi là một cớ vấp phạm
đối với dân Do-thái, và điên rồ đối với các dân ngoại.
Chính Phao-lô vẫn luôn tìm mọi dịp để loan báo Tin Mừng, cho những
người Do-thái đạo đức nơi các hội đường; cho những người Hy-lạp rảnh rỗi dưới
các cổng đền Agora ở Athènes; cho những phu khuân vác ở bến cảng Cô-rin-tô; cho
các vị thẩm phán La-mã hay những thành viên của công nghị: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự
hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9, 16). Ngay cả nếu ước đoán của con người
cho “thành công” là rất hoạ hiếm, người tông đồ cũng phải chấp nhận rủi ro vì
Lời. Phao-lô vững tin vào quyền năng của Lời, nó không thuộc tầm mức đo lường
của sức mạnh con người: “Vâng, tôi không
hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ
bất cứ ai có lòng tin, trước là người Dothái, sau là người Hylạp”(Rm 1, 16);
thánh nhân chắc chắn rằng, mặc dù sự yếu đuối của chúng ta, Lời luôn sẵn chứa
một “sức mạnh của sự sống”: “Tôi nói, tôi
giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên
Chúa” (1 Cr 2, 4).
Truyền Thống sống động của Lời được biểu lộ ở đâu?
Truyền Thống luôn sống động, nó được lưu truyền giữa lòng một dân tộc
sinh động bởi Thần Khí, chứ không chỉ lưu giữ trong những tập hồ sơ dầy cộm của
thư viện. Đó là điều mà các Giáo Phụ gọi là sự
đồng thuận của đức tin. Sự đồng thuận
của đức tin giữa lòng dân Chúa, chính là “trí hiểu biết tâm linh” của những
sự thật nền tảng của đức tin, mà cộng đoàn các tín hữu đang trải nghiệm, và qua
đó ta có thể nói rằng Thiên Chúa đang nói.
Mỗi tín hữu là thành phần của một dân tộc, đức tin của họ là một gắn
kết cá nhân và một di sản nhận được từ dân tộc của niềm tin. Như thế, mỗi tín
hữu cũng là người mang nơi mình Truyền Thống sống động này. Sự nhất trí ấy được
Thần Khí sinh động, nó biểu lộ trong sự đồng nhất của các Công Đồng và các Giáo
Phụ, về những vấn đề trọng yếu được công bố như những chuẩn mực của Đức Tin,
như trường hợp Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Mặc dù nó không được các Giáo Hội Chính
Thống công nhận, họ chỉ chấp nhận bảy Công Đồng “Chung” đầu tiên, giữa thế kỷ
thứ V và thứ VI, chính sự nhất trí này đã thiết lập quy điển của các Sách Kinh
Thánh và kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tuy nhiên Giáo Hội nhận biết rằng mình cũng có thể từ từ tiến bước
trong việc trình bày tín lý về những chân lý của đức tin, tuỳ theo mức độ ý
thức về chính mầu nhiệm của mình, như Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, của Công Đồng Va-ti-ca-nô
II đã chứng tỏ. Tín điều không là một khối đông cứng, việc trình bày các tín
điều có thể được minh định với thời gian. Giáo Hội phải từng bước, thử tiếp cận
với một chân lý thiêng liêng vượt trên mọi khả năng hiểu biết của con người,
bằng những từ ngữ hạn hẹp của con người, luôn chỉ là tương đối trong một thời điểm,
một môi trường văn hóa. Huấn quyền chứng thực cho sự tăng trưởng này của ý thức
về Giáo Hội.
Còn nhiều nơi khác mà Truyền Thống có thể được
diễn tả, như: Phụng Vụ, Kinh nguyện của Giáo Hội, Giáo Lý chính thức, các nhà
thần học, ngành khảo cổ học… Một lần nữa ta nên nhớ rằng Giáo Hội là một mầu
nhiệm của sự hiệp thông, trong đó có nhiều đặc sủng khác nhau: giảng dạy, cai
quản, nhiệm vụ của ngôn sứ là phục vụ cho việc xây dựng toàn thể Thân Mình mầu
nhiệm của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sống động trong toàn thể, và cách đặc biệt
là Giám Mục Đoàn, các đấng kế vị các tông đồ, những người đã nhận lời hứa không sai lầm do chính Chúa Thánh Thần
bảo đảm, chứ không phải chỉ một mình Đức Giáo Hoàng. Ơn không sai lầm này chỉ
được thể hiện trên nội dung của Mạc Khải thôi.
Sau hết, để kết thúc chương này, - lẽ ra nó đòi hỏi một sự triển khai
có tầm vóc chuyên môn rộng rãi hơn, nhưng lại cũng có thể làm nhiều bạn đọc
chán ngán! - ta phải thận trọng để đừng đặt trên cùng một bình diện, cái mà ta
thường gọi là “Quyền giáo huấn đặc biệt”, và “Guyền giáo huấn thông thường”.
Quyền “giáo huấn đặc biệt” nhằm biểu lộ, vào một thời điểm được ấn
định, sự đồng tâm nhất trí của toàn thể Giám Mục hiệp thông với đấng kế vị
thánh Phê-rô. Một trường hợp rất long trọng và hoạ hiếm. Thường là để xác quyết
và minh định một điều thuộc tín lý. Việc này cũng có khi được thể hiện dưới
hình thức một Công Đồng, chung hoặc địa phương. Nhằm đối phó với một sai lạc về
tín lý cách nghiêm trọng. Công Đồng Va-ti-ca-nô II là một Công Đồng đầu tiên không nhắm vào một tà thuyết
nào, mà là một ưu tư đặc biệt về Mục Vụ. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, mọi định
nghĩa về tín lý đức tin đều không có
cùng một tầm mức quan trọng như nhau. Thí dụ, ta không thể đặt trên cùng một
bình diện tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi, với tín điều về Đức Mẹ Hồn Xác lên
trời.
Quyền “giáo huấn thông thường” được thể hiện bởi một “Thư mục vụ” của
một Giám Mục trong giáo phận của ngài, hay một “Thư chung” của Giáo Hoàng, nhằm
đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của cộng đoàn các ki-tô hữu, chứ không nhắm vào
những chân lý nền tảng của đức tin. Những bức thư này đòi phải được đón nhận
với lòng trân trọng, trong mức độ mà vị Giám Mục hay Giáo Hoàng được đảm bảo
bởi sự hiệp nhất của Giáo Hội, chứ không có sự đảm bảo “không sai lầm”. Nếu, về
mặt đạo đức trong nếp sống, Giáo Hoàng có một quyền bính về luân lý đạo đức
thực thụ, thì điều ngài nói trong bối cảnh của thời đại ngài cũng không nhất
thiết là một phán đoán đối với thái độ, những nhận định khác của một vị Giáo
Hoàng khác, trong những trường hợp hay bối cảnh thuộc thời đại khác.
Nguồn: kinhthanh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét